Tài liệu họp HĐ khóa VI - Huyện Triệu Phong
Mảnh đất con người
Mảnh đất Triệu Phong chính thức thuộc về bản đồ nước Đại Việt từ năm 1306, lúc hai châu Ô – Rý được vua Chăm pa là Chế Mân làm sính lễ cưới Công chúa Huyền Trân - con gái vua Trần Nhân Tông. Từ năm đó về trước, sử cổ chỉ cho biết mảnh đất này là một phần của Bộ Việt Thường – một trong 15 Bộ của nước Văn Lang đời các vua Hùng. Sau năm 207 (trước Công nguyên) là một phần của huyện Tỷ Ảnh, quận Nhật Nam thời Bắc thuộc. Giữa thế kỷ IVvlúc Vua Chămpa là Phạm Văn đánh đuổi quân Hán ra khỏi đèo Ngang, trở thành một phần đất của Châu Ô, thuộc Vương Quốc Chămpa.
Sau khi tiếp quản 2 châu Ô - Lý, nhà Trần cho dời dân từ phía Bắc vào sinh sống, lập nghiệp, mở đầu quá trình hình thành làng xã và thành lập đơn vị hành chính. Quá trình dời dân diễn ra ba đợt chính:
+ Đợt thứ nhất từ năm 1307, do tình hình còn phức tạp nên số dân và số làng chưa nhiều. Theo sách Minh Chí của Trung Quốc, mãi đến giữa những năm 20 của thế kỷ XV (tức hơn một thế kỷ sau) cả hai Châu Thuận và Hoá mới chỉ có 79 làng với 1.470 nhà và 5.662 khẩu.
+ Đợt thứ hai diễn ra vào những năm đầu đời vua Lê Thánh Tông, là một đợt khá lớn. Theo sách Thiên Nam dư hạ tập viết năm 1483 thì riêng huyện Võ Xương đã có đến 53 làng. Năm 1553 sách Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An ghi số làng là 59. Lúc này các làng ở vùng đồng bằng đã khá nhiều, ở sát trung du ít hơn, và dọc bãi cát cũng có người ở nhưng thưa thớt, chưa hình thành làng xã.
+ Đợt thứ ba bắt đầu từ thời Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá (1558) trở đi. Đây là đợt di dân lớn nhất. Hai thế kỷ sau, năm 1776, sách Phủ Biên tạp lục đã cho biết huyện Đăng Xương gồm có 5 tổng, 107 xã, 29 phường, 7 giáp (huyện Đăng Xương lúc đó còn bao gồm cả tổng An Phúc, huyện Hải Lăng và tổng An Lạc của huyện Cam Lộ, trong lúc đó tổng Hoa La và tổng An Dã lại thuộc huyện Hải Lăng).
Năm 1307, nhà Trần đổi tên Châu Ô thành Châu Thuận, đặt lỵ sở tại vùng Vệ Nghĩa ( xã Triệu Long ngày nay). Về hành chính, nhà Trần chia Châu Thuận thành 4 huyện. Đất Triệu Phong hiện giờ là huyện Hoa Lãng (nghĩa là đẹp và rộng thoáng). Năm 1469, vua Lê Thánh Tôn định lại bản đồ đất nước, đổi tên Hoa Lãng thành Võ Xương thuộc phủ Triệu Phong (Phủ Triệu Phong lúc này gồm 6 huyện từ Cửa Việt vào Điện Bàn, Quảng Nam). Năm 1604, Nguyễn Hoàng đổi thành huyện Đăng Xương, song phần đất của huyện Đăng Xương thời ấy khác với bây giờ. Tình trạng đó tồn tại mãi đến đời Minh Mạng, Tự Đức và Khải Định mới dần dần điều chỉnh lại thành địa giới huyện như sau này. Quá trình điều chỉnh địa phận như sau:
Năm 1836, cắt tổng An Lạc về huyện Địa Linh (Gio Linh). Cắt tổng An Nhơn và 3 thôn Phương Long, Phú Hải, Thuận Đầu (thuộc tổng An Lưu) về huyện Hải Lăng. Cắt tổng An Dã và 2 làng Tam Hữu, Anh Hoa (Anh Kiệt thuộc tổng An Thái và phần lớn tổng Hoa La và các làng Thạch Hãn, Tý Lễ Quy Thiện, Long Hưng, Tích Tường, Như Lệ nhập về huyện Đăng Xương.
Năm 1842, cắt 4 thôn Phường Thiết, Tràng Thượng, Hoà Đức, Nội Đức của tổng An Đôn nhập về huyện Thành Hoá (nay là Cam Lộ).
Năm 1867, cắt các làng Đông Lai, Thượng Nghĩa, Đông Hà, Tây Trì thuộc tổng An Đôn về huyện Thành Hoá, đồng thời các làng Hà Xá, Trung Chỉ, Điếu Ngao, Lộc Yên từ Thành Hoá về huyện Đăng Xương.
Năm 1920, chuyển các thôn Duy Phiên, Thanh Xuân, Xuân Thành từ huyện Gio Linh về phủ Triệu Phong).
Năm 1844, do trùng với tên huý nhà vua (Nguyễn Phúc Ưng Đăng) nên vua Kiến Phúc đổi Đăng Xương thành Thuận Xương.
Khoảng 1918 - 1919, đời vua Khải Định, qua cải cách hành chính, phủ chỉ là huyện lớn không kiêm lý huyện và Thuận Xương trở thành phủ, lấy tên là phủ Triệu Phong, gồm 5 tổng: An Đôn, Bích La, An Dã, An Cư và An Lưu.
Sau Cách mạng tháng 8/1945 thắng lợi, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập, bỏ đơn vị hành chính cấp tổng thay bằng xã, phủ thay bằng huyện. Tháng 10/1946, toàn huyện Triệu Phong có 14 xã, gồm: Phong Quang, Phong Đăng, Phong Dạ, Phong Thái, Phong La, Phong Xá, Phong Lai, Phong Hội, Phong Thanh, Phong Việt, Phong Hanh, Phong An, Phong Sơn và Phong Nguyên.
Năm 1950, thực hiện chủ trương của tỉnh, huyện Triệu Phong từ 14 xã đã sáp nhập thành 10 xã lớn, gồm: Triệu An, Triệu Bình, Triệu Cơ, Triệu Hoà, Triệu Nguyên, Triệu Quang, Triệu Sơn, Triệu Tân, Triệu Thành, Triệu Vinh.
Sau Hiệp định Giơnevơ, năm 1956, chế độ tay sai Ngô Đình Diệm ở miền Nam đã chia Triệu Phong thành 18 xã nhỏ thuộc 3 quận khác nhau là quận Triệu Phong, quận Đông Hà và quận Ba Lòng. Cắt xã Triệu Nguyên về quận Ba Lòng; cắt xã Triệu Hoà (tức xã Triệu Lương, Triệu Lễ lúc đó và nay là phường Đông Lương, Đông Lễ thuộc thành phố Đông Hà) về quận Đông Hà); các xã còn lại thuộc quận Triệu Phong.
Sau ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất đất nước, tháng 02/1976, tỉnh Bình Trị Thiên được thành lập từ ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế. Tiếp đó, ngày 11/3/1977, huyện Triệu Phong và huyện Hải Lăng hợp nhất thành huyện Triệu Hải. Thực hiện chủ trương của tỉnh, năm 1981, cắt hai xã Triệu Lương, Triệu Lễ chuyển qua thị xã Đông Hà.
Thực hiện Quyết định số 91/QĐ-HĐBT ngày 23/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng, huyện Triệu Hải được tách thành hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng. Huyện Triệu Phong có 21 xã, gồm: Triệu Ái, Triệu Giang, Triệu Thượng, Triệu Thành, Triệu Long, Triệu Đông, Triệu Hoà, Triệu Thuận, Triệu Đại, Triệu Độ, Triệu Phước, Triệu Trạch, Triệu An, Triệu Vân, Triệu Lăng, Triệu Tài, Triệu Trung, Triệu Sơn, Triệu Nguyên, Ba Lòng, Hải Phúc. Ngày 01/8/1994, thành lập thị trấn Ái Tử. Ngày 17/12/1996, cắt ba xã Triệu Nguyên, Ba Lòng, Hải Phúc về huyện Đakrông.
Thực hiện Nghị quyết số 832/NQ-UBTVQH14 ngày 17/12/2019 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã Triệu Đông vào xã Triệu Thành. Sau khi sắp xếp, huyện Triệu Phong có 17 xã và 01 thị trấn, gồm: Triệu Ái, Triệu Giang, Triệu Thượng, Triệu Thành, Triệu Long, Triệu Hoà, Triệu Thuận, Triệu Đại, Triệu Độ, Triệu Phước, Triệu Trạch, Triệu An, Triệu Vân, Triệu Lăng, Triệu Tài, Triệu Trung, Triệu Sơn và thị trấn Ái Tử.
Bên cạnh đó, thực hiện Quyết định số 2582/QĐ-UBND ngày 26/9/2019 của UBND tỉnh Quảng Trị “Về việc sắp xếp, sáp nhập thôn, khu phố thuộc các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Triệu Phong”, theo đó toàn huyện có 92 thôn, khu dân cư (giảm 54 thôn, khu dân cư), gồm: thôn Hữu Hoà, An Lộng, Vân Hoà, Bố Liêu, Mỹ Lộc, Hà My (xã Triệu Hoà); Ngũ Hiệp, Khu vực 1 Nhan Biều, Khu vực 2 Nhan Biều, Khu vực 3 Nhan Biều, Trấm, Tân Xuân, Thượng Phước (xã Triệu Thượng); Bích Trung Nam, Bích La Đông, Nại Cửu, Cổ Thành, Hậu Kiên, An Tiêm, Tân Đức (xã Triệu Thành); Đồng Văn, Thượng Phú Phường, Phương An, Linh Chiểu (xã Triệu Sơn); Lương Tài Xá, Đại Hào, Quảng Lượng, Đại Hoà, Quảng Lượng (xã Triệu Đại); An Định, Cồn Bồi Kiệt, Đại Thượng Hạ, Bích Lộc Triêu, Đùng Hói Bàu, Lưu Nghĩa, Phương Ngạn, Bích Khê (xã Triệu Long); Phú Mỹ Kiên, Trà Liên Đông, Trà Liên Tây (xã Triệu Giang); Tân Kiên, Hà Xá, Ái Tử, Nại Hiệp, Kiên Phước (xã Triệu Ái); Thôn 7, Thôn 8, Thôn 9 (xã Triệu Vân); Đồng Tâm, Vân Tường, Lệ Xuyên, Linh An, Long Quang (xã Triệu Trạch); Tiểu khu 1, Tiểu khu 2, Tiểu khu 3, Tiểu khu 4, Tiểu khu 6 (thị trấn Ái Tử); An Cư, Nam Phước, An Hà, Bắc Phước, Cao Việt, Lưỡng Kim (xã Triệu Phước); Đạo Trung, Xuân Tam Mỹ, Ngô Xá Thanh Lê, Ngô Xá Đông (xã Triệu Trung); An Trung Đồng, Xuân Quy, Tân Liêm, Gia Độ, An Lợi (xã Triệu Độ); Ba Tư, Thôn 1, Thôn 2, Thôn 5, Thôn 6 (xã Triệu Lăng); An Xuân, Tường Vân, Phú Hội, Hà Tây (xã Triệu An); Đồng Tâm 1, Đồng Tâm 2, An Hưng, Tài Lương, Phú Liêu, An Trú (xã Triệu Tài); Võ Phúc An, Dương Lệ Đông, Dương Đại Thuận, Dương Đại Thuận, Dương Văn Lộc (xã Triệu Thuận).
II. TÍNH CÁCH CON NGƯỜI:
Dân số Triệu Phong hiện có 90.531 người (theo số liệu thống kê năm 2020), có nguồn gốc từ Bắc Trung Bộ di cư vào khai canh lập địa ở đây. Các gia phả của dòng học còn lưu lại đã chứng minh phần lớn nguồn gốc của người Kinh ở huyện Triệu Phong là từ Thanh - Nghệ - Tĩnh di cư vào trong thời gian từ 1306 đến cuối thế kỷ thứ XVI.
Các thế hệ cùng chung lưng đấu cật để tạo dựng cuộc sống trên mảnh đất Triệu Phong, họ đoàn kết, hoà hợp nhau, thích nghi với hoàn cảnh, cùng nhau phát huy tinh thần lao động, cần cù, sáng tạo, đấu tranh để giành lấy cuộc sống hạnh phúc.
Thiên tai khắc nghiệt thì tìm mọi cách, làm mọi việc để hạn chế thiệt hại, vận dụng lợi thế sông nước, đào kênh vét hói để chống úng, chống hạn. Đất hoang trống thì khai phá, đất cằn cỏi thì chăm bón thành phì nhiêu. Cát lấn, họ đắp đập ngăn, biển dâng thì xây bể chắn. Để kịp thời vụ họ thức khuya dậy sớm, luồn lách giữa nắng cháy, gió rét mưa dầm.
Về nhân họa, con người thường xuyên đối mặt với nạn thuế, nặng sưu cao, nạn quan lại tham nhũng, nạn cường hào áp bức, bốc lột, nạn bắt lính, bắt phu, nạn hương ẩm và bao chiếm ruộng công khiến bao nhieu công lao của người nông dân bỏ ra trở thành công uổng. Đứng trước những tai họa đó, nhân dân đã kiên quyết giữ vững tinh thần đoàn kết đấu tranh bảo vệ quyền lợi. Khi đất nước bị nạn ngoại xâm, họ gác lại quyền lợi riêng, chung lòng chiền đấu, không ngại gian khó, hy sinh. Cuộc sống đã dạy họ không phải chỉ có đấu tranh mà còn phai biết mỡ rộng trí óc, tầm mắt để vô hiệu hóa chính sách ngu dân của mọi bè lũ thống trị. Những câu hát lời ca dân dã, những câu đối khắc chạm ở các đình làng, các nhà thờ họ vừa nói lên quyết tâm bảo vệ đất nước quê hương, vừa không quên nhắc nhở con em giữ gìn thuần phong mỹ tục, tiếp nối cha ông xây dựng danh giá của xóm làng, dòng họ.
Cuộc sống đã hun đúc cho con người Triệu Phong những đúc tính quý báu. Đó là sự bền bỉ dẻo dai, chịu thương chịu khó đến quên mình, sống kiên nghị, dũng cảm nhưng rất mực nhân hậu, thủy chung. Bộc trực thẳng thắn nhưng lại hiền lành chất phát, lạc quan, tự trọng và biết mình biết người, ham học hỏi, trọng nhân nghĩa quý hiền tài.
Chính nhờ những đức tính đã hóa thành truyền thống ấy, các tiền nhân đã lập nên trên dãi đất này biết bao kỳ tích. Đất đai ngày càng mở rộng, không một tấc hoang hóa, làng xóm ngày một yên ấm, tươi vui hơn. Mỗi tên đất, tên làng, mỗi dòng sông phố chợ đều gắn liền với những sự tích anh hùng, trở thành những di tích lịch sử - văn hóa minh chứng sự trường tồn cho mảnh đất quê hương. Chẳng phải ngẫu nhiên mà mới vào đầu thế kỷ XVI, huyện Triệu Phong đã có người khai khoa Giải nguyên là Lương Văn Quán, người làng Đạo Đầu. Thời nhà Nguyễn trong số 25 vị đại khoa của tỉnh thì riêng huyện Triệu Phong lại chiếm đến 11, trong đó có hai Hoàng Giáp (tức là đỗ đầu tiến sĩ). Hơn thế nữa, chính trí thông minh và tinh thần say sưa học tập của nhân dân Triệu Phong đã thể hiện tập trung qua một số người con trác việt, Nguyễn Văn Tú, người làng Đại Hào (nay thuộc xã Triệu Đại) vào khoảng năm 1730 - 1773 sau khi đi học hai năm ở nước ngoài, đã nắm chắc được kỹ thuật chế tạo nên những chiếc kính thiên lý và những chiếc đồng hồ kiểu mới đầu tiên của đất nước Việt Nam không chút thua kém phương Tây; Nguyễn Hữu Thận, người làng Đại Hào (xã Triêu Đại), vào năm 1813, bằng cách tự tìm tòi sách vở để nghiên cứu, trở thành nhà thiên văn học xuất sắc nhất nước lúc bấy giờ, làm ra lịch âm dương Hiệp kỷ mà hiện nay chúng ta vẫn còn dùng.
Triệu Phong cũng là mảnh đất đã sản sinh cho dân tộc, cho Tổ quốc nhiều nhà lãnh đạo tài ba, đã từng giữ những trọng trách cao cả trong Tỉnh ủy Quảng Trị (Bí thư Tỉnh uỷ: Lê Thế Tiết, Trần Hữu Dực, Đoàn Bá Thừa, Hoàng Hửu Chấp, Nguyễn Vức, Hồ Xuân Lưu, Trương Hoàn, Nguyễn Quang Xá, Lê Thị Diệu Muội, Đặng Thí, Nguyễn Cáo, Trương Chí Công,…), Xứ ủy Trung Kỳ và Trung ương. Tiêu biểu là đồng chí Lê Duẩn – Tổng Bí thư của Đảng – là chiến sĩ thuộc lớp cận vệ đầu tiên của Đảng, một người học trò lỗi lạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, cho tự do, hạnh phúc của nhân dân và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Ngày nay, khi cuộc sống đang từng bước thay da đổi thịt, đồng ruộng quanh năm xanh biếc, nhà bê tông, cốt thép kiên cố thay cho nhà mái tranh; sản xuất nông nghiệp được cơ giới hoá thay thế cho lao động chân tay, nhưng huyện Triệu Phong hẳn không quên niềm tự hào về quá khứ, lòng tin ở tương lai như câu đối khắc ở trụ cổng phủ đường tại Cổ Thành, cách đây hơn nữa thế kỷ:
Triệu tạo sơ cơ lưu vĩnh tích,
Phong hanh vận hội đáo kim lai.
Tạm dịch:
Triệu tạo nên xưa lưu nghiệp lớn,
Phong hanh vận mới mở hôm nay.
Sự nghiệp bao đời trước để lại không nhỏ, đó là một khối lượng vật chất và tinh thần. Gia tài đồ sộ ấy không phải chỉ thấm mồ hôi của gần 600 năm xây dựng mà còn thấm đẫm với máu và nước mắt của hàng chục thế hệ cha ông đã đổ ra để giữ gìn từng tấc đất của quê hương, không bao giờ chịu để thù trong, giặc ngoài giày xéo. Đó là nguồn sức mạnh để nhân dân huyện Triệu Phong đi lên trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng./.
]]>